Theo bà Phạm Thị Thanh Tùng, Việt Nam được xếp vào nhóm thứ 2 các quốc gia có sự tiến bộ đáng kể trong tiến trình phát triển bền vững tại báo cáo Đánh giá tiến bộ quốc gia giai đoạn 2020-2021 của Mạng lưới tài chính và ngân hàng bền vững (SBFN).
“Giai đoạn 2017-2021, dư nợ cấp tín dụng xanh có tăng trưởng bình quân đạt hơn 25%/năm. Đến 30-6-2022, dư nợ cấp tín dụng đối với các d??? án xanh đạt hơn 474.000 tỷ ??ồng (chiếm 4,1% tổng dư nợ toàn nền kinh t??), tăng 7,08% so với năm 2021, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (47%), nông nghiệp xanh (32%). Dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt hơn 2.283.000 tỷ ??ồng, chiếm gần 20% dư nợ cho vay của nền kinh t??, với hơn 1,1 triệu món vay...”, bà Tùng cho hay.
Cũng theo đại diện NHNN, các tổ ch??c tín dụng có sự chuyển biến rõ rệt trong định hướng hoạt động tín dụng xanh, chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để phát triển và triển khai cho vay chương trình tín dụng xanh. Điển hình như, D??? án chuyển hóa cacbon thấp sang lĩnh vực tiết kiệm năng lượng được các ngân hàng như: BIDV, ANZ triển khai với nguồn vốn do Chính phủ Đan Mạch tài trợ theo Chương trình hỗ trợ đầu tư xanh (GIF). Hay sản phẩm cho vay d??? án phát triển năng lượng tái tạo tại các ngân hàng: Vietcombank, BIDV, Vietinbank, SHB, HDBank từ nguồn vốn Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra, còn có sản phẩm cho vay công trình xanh từ nguồn vốn của IFC tại VPBank; sản phẩm cho vay lại để triển khai các d??? án năng lượng tái tạo từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) thông qua Vietcombank...
Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng cho tăng trưởng xanh còn đối mặt với không ít tồn tại, khó khăn, do Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục d??? án xanh cho các ngành/lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh t??, làm căn cứ để các tổ ch??c tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới.
Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu, nên khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của d??? án, khả năng trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, còn có khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi cấp tín dụng do thiếu quy định tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường. Mặt khác, hạn chế trong ý thức bảo vệ môi trường của người dân, doanh nghiệp dẫn đến bị xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện d??? án, tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ cho các tổ ch??c tín dụng.
Vẫn theo bà Phạm Thị Thanh Tùng, việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các tổ ch??c tín dụng thường là vốn huy động ngắn hạn. Điều này gây khó khăn cho các tổ ch??c tín dụng trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định.
Nữ chuyên gia đề xuất Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định d??? án xanh phù hợp với phân ngành kinh t?? của Việt Nam làm cơ sở cho các tổ ch??c tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ các ngành xanh (từ thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách ??ồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
Về phía các ngân hàng, doanh nghiệp, cần tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ ch??c tín dụng trong nước tham gia hoạt động hợp tác quốc tế tài trợ vốn cho các d??? án xanh; đổi mới khoa học, công nghệ theo hướng giảm phát thải, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, góp phần phát triển bền vững.