Tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm cả nước quý I năm 2022

|

Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm quý I năm 2021

Năm 2021, dựa trê;n khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, Tổng cục Thống kê; đã tổ chức thu thập và tính toán các chỉ tiê;u thống kê; lao ??ộng việc làm áp dụng Khung khái niệm mới đã được các quốc gia thống nhất sử dụng tại Hội nghị quốc tế về thống kê; lao ??ộng việc làm lần thứ 19 tổ chức vào tháng 10 năm 2013 tại Geneva, Thụy Sĩ. Khung khái niệm này có tê;n gọi chung là tiê;u chuẩn ICLS 19 được ban hành để thay thế tiê;u chuẩn ICLS 13, năm 1982. Tiê;u chuẩn ICLS 19 ra đời thay thế tiê;u chuẩn ICLS 13 trong bối cảnh tốc độ khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trê;n thế giới đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường hiện đại với tình trạng phụ thuộc vào các sản phẩm tự cung tự cấp hầu như không đáng kể. Theo tiê;u chuẩn mới ICLS 19, những người làm việc với mục đích sản xuất sản phẩm tự cung tự cấp trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sẽ không được xác định là những người có việc làm như quy định trước đây của tiê;u chuẩn ICLS 13. Tiê;u chuẩn ICLS 19 được khuyến nghị sử dụng chung trê;n toàn thế giới với mục tiê;u đảm bảo tính so sánh giữa các nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển khác nhau của tất cả các quốc gia.
 
Từ quý I năm 2021, Tổng cục Thống kê; sẽ chính thức công bố các chỉ tiê;u thống kê; về lao ??ộng việc làm dựa theo tiê;u chuẩn ICLS 19. Hơn nữa, để đánh giá đầy đủ sự biến động của thị trường lao ??ộng qua thời gian, Tổng cục Thống kê; sẽ đồng thời tính toán và công bố lại các chỉ tiê;u thống kê; lao ??ộng việc làm theo tiê;u chuẩn ICLS 19 của các quý từ năm 2019 đến nay làm căn cứ so sánh. Các thông tin về người lao ??ộng làm công việc tự sản tự tiê;u trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng được ghi nhận và công bố trong báo cáo này.
 
1. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước
 
Bức tranh về nền kinh tế toàn cầu đã trải qua một năm đầy biến động với “gam màu tối” là chủ đạo do ảnh hưởng trầm trọng bởi dịch Covid-19. Tháng 12 năm 2020, vắc – xin ngừa dịch viê;m đường hô hấp cấp Covid-19 ra đời giúp kiểm soát đại dịch và khôi phục hoạt động kinh tế. Kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi đáng kể.
 
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2021, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ đạt mức 4% và tăng trưởng của Việt Nam, một trong số ít quốc gia có tăng trưởng dương năm 2020, dự kiến đạt 6,8%.
 
Trong lĩnh vực lao ??ộng việc làm, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhận định thị trường lao ??ộng việc làm đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu phục hồi sau những gián đoạn chưa từng có do đại dịch Covid-19 gây ra trong năm 2020. Tuy nhiê;n, sự tác động tiê;u cực của đại dịch vẫn còn đang tiếp diễn. Báo cáo tác động Covid-19 của tổ chức này đưa ra số liệu mới nhất cho thấy số giờ làm việc toàn cầu năm 2020 đã sụt giảm 8,8% so với quý 4 năm 2019. Mức độ sụt giảm này bao gồm cả số giờ làm việc bị giảm của những người vẫn có việc làm và những người bị mất việc. Đáng lưu ý, khoảng 71% số người bị mất việc (tương đương 81 triệu người) quyết định rời bỏ thị trường lao ??ộng thay vì đi tìm công việc khác và trở thành người thất nghiệp. Những thiệt hại vô cùng lớn này khiến thu nhập từ lao ??ộng trê;n toàn cầu giảm 8,3%, tương đương với 3,7 nghìn tỷ đô la Mỹ hay 4,4% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu.
 
Ở trong nước, dịch Covid-19 bùng phát ở một số địa phương vào những ngày giáp Tết Nguyê;n đán năm nay đã tác động đến tình hình lao ??ộng, việc làm của cả nước và ảnh hưởng đến đà khôi phục việc làm và cải thiện thu nhập của người lao ??ộng trong quý I. Kết quả điều tra lao ??ộng việc làm quý I năm 2021 ghi nhận số người tham gia thị trường lao ??ộng giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao ??ộng có việc làm phi chính thức và lao ??ộng thiếu việc làm đều tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Thu nhập của người lao ??ộng tăng nhưng tốc độ tăng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ trước khi có dịch.
 
2. Tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao ??ộng việc làm
 
Hiện nay, cả nước vẫn còn 9,1 triê;̣u người từ 15 tuổi trở lê;n bị ảnh hưởng tiê;u cực bởi dịch Covid-19
 
Mặc dù những nỗ lực khôi phục kinh tê;́ đi đôi với phòng chống dịch đã phần nào cải thiê;̣n các gam màu xám của tình hình lao ??ộng viê;̣c làm trong nước, nhưng trong quý I năm 2021, cả nước vẫn còn 9,1 triệu người từ 15 tuổi trở lê;n bị ảnh hưởng tiê;u cực bởi dịch Covid-19 trong đó nam giới chiếm 51,0% và số người trong độ tuổi từ 25 đê;́n 54 chiếm gần hai phần ba.
 
Trong tổng số 9,1 triệu người bị tác động tiê;u cực bởi đại dịch Covid-19, có 540 nghìn người bị mất việc, 2,8 triệu người phải tạm nghỉ/tạm ngừng sản xuất kinh doanh; 3,1 triệu người cho biết họ bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiê;n và 6,5 triệu lao ??ộng báo cáo họ bị giảm thu nhập.
 
Lao động khu vực thành thị chịu tác động nhiê;̀u hơn khu vực nông thôn với 15,6% lao ??ộng khu vực thành thị còn bị ảnh hưởng, trong khi đó con số này ở nông thôn là 10,4%.
 
Nhóm lao ??ộng thất nghiê;̣p chịu tác động mạnh mẽ nhất khi 36,3% trong số họ vẫn còn chịu ảnh hưởng tiê;u cực, tiê;́p đó là lao ??ộng có viê;̣c làm (15,5%), chỉ có 4,3% lao ??ộng không hoạt động kinh tê;́ còn chịu tác động tiê;u cực bởi đại dịch này.
 
Xét theo 3 khu vực, khu vực ít chịu tác động nhất của đại dịch là khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản với 7,5% lao ??ộng cho biết chịu tác động tiê;u cực của đại dịch. Đứng thứ hai là khu vực công nghiệp và xây dựng với 16,5% lao ??ộng bị ảnh hưởng. Lao động trong khu vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, chiếm tỷ lệ 20,4%.
 
Lực lượng lao ??ộng quý I năm 2021 giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Xu thế tăng về số lượng lao ??ộng của năm sau so với cùng kỳ các năm trước đã không còn là điều hiển nhiê;n
 
Lực lượng lao ??ộng từ 15 tuổi trở lê;n trong quý I năm 2021 là 51,0 triệu người, giảm 1,1 triê;̣u người so với quý trước và giảm 180,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. So sánh với quý trước, sự sụt giảm của lực lượng lao ??ộng là xu thế thường quan sát được trong nhiều năm kể cả những năm trước khi xảy ra đại dịch do tâm lý “tháng giê;ng là tháng ăn chơi” của nhiều lao ??ộng sau kì nghỉ Tê;́t Nguyê;n đán. Tuy nhiê;n, sự bùng phát trở lại của đại dịch Covid-19 ngay trước dịp Tết Nguyê;n đán đã làm thay đổi xu thế tăng thường thấy so với cùng kỳ các năm trước. Thông thường, theo đà tăng dân số, lực lượng lao ??ộng năm sau luôn tăng so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiê;n, lực lượng lao ??ộng quý I năm 2021 xuống thấp hơn cùng kỳ năm trước gần 200 nghìn người và thấp hơn cùng kỳ khi chưa có dịch (năm 2019) khoảng 600 nghìn người.
Sự bùng phát lần thứ 3 của đại dịch Covid-19 làm suy giảm đà phục hồi của thị trường lao ??ộng đã đạt được trong 2 quý cuối năm 2020 đồng thời khiến nhiều người lao ??ộng, đặc biệt phụ nữ trở thành lao ??ộng có việc làm phi chính thức
 
Trong quý I năm 2021, số người từ 15 tuổi trở lê;n có việc làm là 49,9 triệu người, giảm 959,6 nghìn người so với quý trước và giảm 177,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn và ở nam giới (tương ứng là giảm 491,5 nghìn người và 713,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước).
 
Trong năm 2020, sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19 đã làm thị trường lao ??ộng suy giảm mạnh trong quý II, số lao ??ộng có việc làm giảm từ 50,1 triệu người trong quý I xuống còn 48,1 triệu người, giảm gần 2 triệu người. Cũng trong năm này ở hai quý tiếp theo, do sự kiểm soát dịch tốt cùng việc thực hiện nới lỏng cách ly xã hội và những chính sách hỗ trợ ảnh hưởng của Chính phủ, thị trường lao ??ộng có có sự phục hồi trở lại, lao ??ộng có việc làm tăng lê;n đạt mức 50,9 triệu người, gần đạt được mức trước khi xảy ra dịch Covid-19 là 51,0 triệu người. Tuy nhiê;n, đến quý I năm 2021, sự bùng phát trở lại của đại dịch Covid với những diễn biến phức tạp ngay trong dịp Tết nguyê;n đán, đã làm giảm đà phục hồi của thị trường lao ??ộng đã đạt được trước đó. Lao động có việc làm giảm còn 49,9 triệu người, giảm 1,8% so với quý trước và giảm 0,36% so với cùng kỳ năm trước.
 
Hình 2: Số lao ??ộng từ 15 tuổi trở lê;n có việc làm các quý, giai đoạn 2019-2021
 
Đơn vị: Triệu người
 

Sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong cộng đồng đã khiến 19,9% lao ??ộng trong các cơ sở sản xuất kinh doanh và 19,0% lao ??ộng trong các doanh nghiệp/Hợp tác xã còn bị ảnh hưởng, chủ yếu là giảm thu nhập hoặc giảm giờ làm.
 
Tuy nhiê;n, dịch Covid 19 cũng góp phần thay đổi thói quen làm việc, thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin của người lao ??ộng nhằm thích nghi với các diễn biến khó lường của đại dịch. Kết quả điều tra cho thấy, trong quý I năm 2021, có hơn 78 nghìn lao ??ộng cho biết do đại dịch Covid-19 nê;n họ đã chuyển đổi từ việc không ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) sang có ứng dụng CNTT trong công việc của mình.
 
Trong quý I năm 2021, số người có việc làm phi chính thức là 20,7 triệu, giảm 251,7 nghìn người so với quý trước và tăng 525,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao ??ộng có việc làm phi chính thức quý I năm 2021 là 57,1%, tăng 1,1 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ này tăng cao ở khu vực nông thôn (tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước tương ứng là 2,1 và 2,6 điểm phần trăm) và ở nữ giới (tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước tương ứng 1,8 và 2,5 điểm phần trăm).
 
Kết quả điều tra cũng cho thấy rằng, mặc dù số người có việc làm giảm nhưng số phụ nữ có việc làm lại tăng so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiê;n, mức tăng này ở phụ nữ chủ yếu là do tăng về số người có việc làm phi chính thức khiến tỷ lệ lao ??ộng phi chính thức của nữ giới tăng mạnh hơn so với nam giới (2,5 điểm phần trăm so với 1,2 điểm phần trăm). Đây có thể là do tác động của yếu tố giới khi tham gia thị trường lao ??ộng dưới tác động của đại dịch Covid-19: nữ giới dễ thỏa hiệp và không có nhiều cơ hội lựa chọn các công việc khi tham gia thị trường lao ??ộng so với nam giới, họ bắt buộc phải chấp nhận làm các công việc kém ổn định hơn miễn là có thể đảm bảo thu nhập cho bản thân và gia đình.
 
Dịch Covid-19 bùng phát lần thứ ba ngay trước và trong dịp Tết nguyê;n đán làm tăng đáng kể số lao ??ộng thiếu việc làm so với quý trước và cùng kỳ năm trước
 
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao ??ộng quý I năm 2021 là 971,4 nghìn người; tăng 143,2 nghìn người so với quý trước và tăng 78,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao ??ộng trong độ tuổi quý I năm 2021 là 2,20%; tăng 0,38 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
 
Hình 3: Số người và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi các quý, giai đoạn 2019-2021


Tỷ lệ thiếu việc làm của lao ??ộng trong độ tuổi quý I năm 2021 ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 3,88%, khu vực công nghiệp và xây dựng là 1,51%; khu vực dịch vụ là 1,76%. Mặc dù khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn có tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao ??ộng cao nhất nhưng so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thiếu việc làm trong khu vực này đã giảm đi 0,8 điểm phần trăm, trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 0,86 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 0,31 điểm phần trăm. Rõ ràng, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã làm tình trạng thiếu việc làm lan rộng sang cả khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
 
Hình 4: Tỷ lệ lao ??ộng thiếu việc làm trong độ tuổi theo khu vực kinh tế quý I, giai đoạn 2019-2021
 
Đơn vị: %

 
Thu nhập bình quân tháng của người lao ??ộng đạt 6,3 triệu đồng, tăng so với quý trước và cùng kỳ năm trước
 
Thu nhập bình quân tháng của người lao ??ộng quý I năm 2021 đạt 6,3 triệu đồng, tăng 339 nghìn đồng so với quý trước và tăng 106 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của lao ??ộng nam cao hơn 1,4 lần của lao ??ộng nữ (tương ứng 7,3 triệu đồng so với 5,2 triệu đồng); thu nhập bình quân lao ??ộng khu vực thành thị cao hơn 1,5 lần lao ??ộng khu vực nông thôn (tương ứng 7,9 triệu đồng so với 5,4 triệu đồng).
 
Bất chấp sự bùng phát của đại dịch Covid-19, thu nhập bình quân của người lao ??ộng quý I năm 2021 vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước và tăng ở cả ba khu vực kinh tế. Thu nhập bình quân tháng người lao ??ộng trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 3,6 triệu đồng, tăng 181 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, lao ??ộng trong khu vực công nghiệp và xây dựng có thu nhập bình quân là 7,2 triệu đồng, tăng 112 nghìn đồng và thu nhập bình quân của lao ??ộng trong khu vực dịch vụ là 7,5 triệu đồng, tăng 55 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
 
Tính chung quý I năm 2021 so với cùng kỳ năm trước, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ghi nhận tốc độ tăng thu nhập bình quân cao nhất, tăng 5,2%; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng là 1,5% và khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng thu nhập bình quân thấp nhất, tăng 0,8%.
 
Hình 5: Thu nhập bình quân tháng người lao ??ộng theo khu vực kinh tế, quý I năm 2020 và 2021
 
Đơn vị: Triệu đồng

Mặc dù thu nhập bình quân chung tăng nhưng mức tăng này không đều giữa các ngành. Một số ngành vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 và thu nhập của lao ??ộng trong ngành đó bị sụt giảm so với cùng kỳ năm trước. Đó là các ngành: nghệ thuật, vui chơi giải trí, giảm 5,2% (giảm 359 nghìn đồng); vận tải kho bãi giảm 2,7% (giảm 234 nghìn đồng).
 
Thu nhập bình quân tháng của lao ??ộng làm công ăn lương quý I năm 2021 đạt 7,2 triệu đồng, tăng 556 nghìn đồng so với quý trước và tăng 132 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Lao động nam có thu nhập bình quân cao gấp 1,2 lần lao ??ộng nữ (7,6 triệu đồng so với 6,6 triệu đồng).
 
Số người thất nghiệp giảm so với quý trước nhưng tăng so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ thanh niê;n không có việc làm và không tham gia học tập hoặc đào tạo tăng lê;n so với cùng kỳ năm trước
 
Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao ??ộng quý I năm 2021 là gần 1,1 triệu người, giảm 137,0 nghìn người so với quý trước và tăng 12,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao ??ộng quý I năm 2021 là 2,42%, giảm 0,21 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,08 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
 
Tỷ lệ thanh niê;n không có việc làm và không tham gia học tập hoặc đào tạo (viết gọn là tỷ lệ NEET, từ tiếng Anh là Youth not in employment, education or training) trong quý I năm 2021 là 16,3%, tương đương với gần 2 triệu thanh niê;n; tăng 0,9 điểm phần trăm tương đương với 51,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ NEET ở khu vực thành thị, nông thôn, nam, nữ đều tăng so với cùng kỳ năm trước, tương ứng là 1,0 điểm phần trăm; 0,7 điểm phần trăm; 1,1 điểm phần trăm và 0,6 điểm phần trăm. Như vậy, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến việc tìm kiếm việc làm cũng như học tập của thanh niê;n, làm tỷ lệ NEET tăng lê;n.
 
Hình 6: Tỷ lệ thanh niê;n không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo quý I năm 2020 và 2021
 
Đơn vị: %

 
Hiện nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao ??ộng tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao ??ộng trẻ; việc tận dụng nhóm lao ??ộng này trở nê;n hạn chế hơn trong bối cảnh dịch Covid-19
 
Tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng là chỉ tiê;u tổng hợp cho biết mức độ “lệch pha” giữa cung và cầu lao ??ộng trê;n thị trường, phản ánh tình trạng dư cung về lao ??ộng. Trong điều kiện kinh tế phát triển bình thường, tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng luôn tồn tại. Tỷ lệ này thường tăng cao khi thị trường chịu các cú sốc về kinh tế – xã hội.
 
Tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng của Việt Nam trước khi dịch Covid-19 xuất hiện ở các quý năm 2019 chỉ ở mức 4%. Tuy nhiê;n tỷ lệ này bắt đầu tăng lê;n khi dịch Covid-19 xuất hiện tại nước ta, chiếm 4,8% vào quý I năm 2020 và tăng lê;n mức cao nhất là 6,2% vào quý II năm 2020 khi dịch Covid-19 bùng phát. Khi các hoạt động kinh tế – xã hội dần được khôi phục vào cuối năm 2020, tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng giảm xuống còn 4,4% vào quý IV năm 2020 và tăng lê;n 4,9% vào quý I năm 2021 khi dịch Covid-19 quay trở lại.
 
Hình 7: Tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng các quý, giai đoạn 2019-2021
 
Đơn vị: %
Tỷ lệ lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng Quý I năm 2021 của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (5,0% so với 4,9%), của lao ??ộng nam cao hơn lao ??ộng nữ (5,2% so với 4,6%). Đa số lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng là những người dưới 35 tuổi (53,2%), trong khi đó lực lượng lao ??ộng dưới 35 tuổi chỉ chiếm 36%. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ lực lượng lao ??ộng tiềm năng chưa được khai thác, đặc biệt là nhóm lao ??ộng trẻ và trong bối cảnh dịch Covid-19 xuất hiện, việc nghiê;n cứu các chính sách để tận dụng nhóm lao ??ộng này càng trở nê;n cần thiết.
 
Hình 8: Cơ cấu tuổi của lực lượng lao ??ộng và lao ??ộng không sử dụng hết tiềm năng, quý I năm 2021
 
Đơn vị: %

Trong toàn nền kinh tế, vẫn còn 3,5 triệu người lao ??ộng làm công việc tự sản tự tiê;u trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nữ giới chiếm gần hai phần ba lực lượng này
 
Lao động tự sản tự tiê;u là lao ??ộng sản xuất ra sản phẩm với mục đích chủ yếu để cá nhân, gia đình sử dụng. Quyết định về sản xuất của lao ??ộng tự sản tự tiê;u chủ yếu hướng về bản thân và gia đình nê;n thường đặc trưng bởi tính khép kín, tính phi lợi nhuận đi kèm với hiệu quả thấp và năng suất không cao. Chính vì vậy, khi kinh tế và cách mạng khoa học công nghệ phát triển, hình thức sản xuất này ngày càng bị thu hẹp. Tuy nhiê;n, với một nước đang phát triển như Việt Nam, số người làm các công việc này trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng vẫn còn khá cao.
 
Theo ước tính, số lao ??ộng sản xuất tự sản tự tiê;u quý I năm 2021 là 3,5 triệu người, chiếm khoảng 4,7 phần trăm số người từ 15 tuổi trở lê;n, tăng 113 nghìn người so với quý trước và tăng 84,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Số lao ??ộng này hầu hết nằm ở khu vực nông thôn và có gần 2/3 số người tự sản tự tiê;u quý I năm 2021 là nữ giới. Lao động tự sản tự tiê;u chủ yếu thuộc độ tuổi từ 50 trở lê;n (chiếm 59,4%). Tỷ lệ lao ??ộng tự sản tự tiê;u trê;n dân số cao nhất thuộc về nhóm 60-64 tuổi (9,9%). Số liệu cho thấy, trong số 3,5 triệu lao ??ộng tự sản tự tiê;u, có hơn 200 nghìn lao ??ộng tự sản tự tiê;u hiện tại vẫn còn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (chiếm 5,8%).
 
Hình 9: Tỷ lệ lao động tự sản tự tiê;u trê;n dân số theo nhóm tuổi, quý I năm 2021
 
                                                                                                                 Đơn vị: %
Số giờ làm việc nhà bình quân của lao ??ộng tự sản tự tiê;u là 16,4 giờ (tương đương khoảng 2,3 giờ/ngày). Lao động nữ giới tự sản tự tiê;u không chỉ tham gia làm việc nhà nhiều hơn nam giới mà số giờ làm việc bình quân của họ cũng cao hơn rất nhiều so với nam giới. Bình quân, mỗi tuần, lao ??ộng nữ giới tự sản tự tiê;u phải dành 19,3 giờ cho các công việc không được trả công trả lương trong gia đình trong khi con số này ở nam giới là 11,3 giờ.
 
Hầu hết tất cả lao ??ộng sản xuất tự sản tự tiê;u đều không có bằng cấp, chứng chỉ (chiếm 93,5%). Trong bối cảnh thị trường lao ??ộng ngày càng đòi hỏi, yê;u cầu cao về tay nghề, kỹ năng cũng như dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn tới tình hình lao ??ộng việc làm, cơ hội để nhóm lao ??ộng này có một công việc trê;n thị trường lao ??ộng sẽ trở nê;n khó khăn hơn.
 
3. Kết luận và khuyến nghị
 
Nhìn chung, những con số thống kê; về tình hình lao ??ộng việc làm quý I năm 2021 đã phản ánh những khó khăn và biến động của nền kinh tế nói chung và thị trường lao ??ộng Việt Nam nói riê;ng trong thời gian qua. Những khó khăn này là thách thức rất lớn đối với các nỗ lực của Chính phủ trước chủ trương hoàn thành tốt mục tiê;u kép: vừa phát triển kinh tế vừa chiến thắng đại dịch. Trước tình hình đó, Tổng cục Thống kê; đề xuất một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho thị trường lao ??ộng trong bối cảnh đại dịch vẫn còn diễn biến khó lường. Cụ thể như sau:
 
– Tích cực nghiê;n cứu triển khai ngay việc cấp hộ chiếu vaccine, xây dựng các tiê;u chí cần thiết để mở cửa thị trường du lịch quốc tế để giúp ngành dịch vụ nói chung và ngành du lịch nói riê;ng không bỏ lỡ cơ hội để phục hồi và phát triển. Các ngành này phát triển sẽ thu hút lượng lớn lao ??ộng tham gia, góp phần tận dụng tốt hơn tiềm năng sẵn có của lao ??ộng.
 
– Hiện nước ta vẫn còn 3,5 triệu lao ??ộng sản xuất sản phẩm nông nghiệp với mục đích chủ yếu để bản thân và gia đình sử dụng. Khoảng 93,5% lao ??ộng tự sản tự tiê;u không có trình độ chuyê;n môn kỹ thuật và hơn một nửa trong số họ đang trong độ tuổi lao ??ộng. Đây là nguồn tiềm năng vô cùng phong phú có thể tận dụng để phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần triển khai những chính sách dành riê;ng để thu hút đối tượng này tham gia thị trường lao ??ộng, một mặt góp phần nâng cao năng suất lao ??ộng xã hội nói chung và một mặt giúp cải thiện đời sống của người lao ??ộng.
 
 TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Trang web giải trí Jia Electronics